Đây cũng là chiến dịch quân sự có thời
gian diễn biến ngắn nhất trong Chiến tranh Việt Nam, diễn ra vào
ngày 26 tháng 4 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại Sài
Gòn và kéo theo các cuộc nổi dậy vũ trang của Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam tại Đồng bằng sông Cửu Long trong hai ngày 1
và 2 tháng 5. Chiến dịch này dẫn đến kết quả là chấm dứt hoàn toàn sự chia
cắt thành hai vùng tập kết quân sự giữa hai miền Nam - Bắc của Việt Nam sau
21 năm, đưa đến việc thống nhất xã hội, chế độ chính trị, dân cư và toàn vẹn
lãnh thổ của Việt Nam trên đất liền, vùng lãnh hải, vùng trời và
một số hải đảo.
Nguồn
gốc tên gọi Chiến dịch Hồ Chí Minh
Tên Chiến dịch Hồ Chí Minh do Bộ Chính
trị quyết định. Đại tướng Võ Nguyên Giáp ký chỉ thị của Quân ủy Trung
ương mở Chiến dịch Hồ Chí Minh mà trong đó Văn Tiến Dũng làm
Tư lệnh; Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh và Trần Văn Trà làm
Phó Tư lệnh; chỉ huy 5 cánh quân với sức mạnh của 20 sư đoàn đồng loạt
tiến vào giải phóng Sài Gòn. Mệnh lệnh nổi tiếng của ông chỉ đạo Chiến dịch Hồ
Chí Minh là:
Thần
tốc, thần tốc hơn nữa.
Táo
bạo, táo bạo hơn nữa.
Tranh
thủ từng phút, từng giờ, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến
và toàn thắng.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp
|
Ngày 8 tháng 4 năm 1975,
tại Lộc Ninh, Bộ Chỉ huy Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn - Gia Định được
thành lập với thành phần: Tư lệnh: Đại tướng Văn Tiến Dũng, Chính ủy: Phạm
Hùng, các Phó Tư lệnh: Thượng tướng Trần Văn Trà, Trung tướng Lê
Đức Anh, Trung tướng Đinh Đức Thiện, Quyền Tham mưu trưởng: Thiếu tướng Lê
Ngọc Hiền, Chủ nhiệm Hậu cần: Thiếu tướng Bùi Phùng, sau đó bổ sung Trung
tướng Lê Trọng Tấn làm Phó Tư lệnh và Trung tướng Lê Quang Hòa làm
Phó Chính ủy kiêm Chủ nhiệm Chính trị. Có hai nhân vật lãnh đạo không phải
là quân nhân tham gia là các ông Nguyễn Văn Linh và Võ
Văn Kiệt. Ông Nguyễn Văn Linh được giao phụ trách công tác phát động
quần chúng nổi dậy trong thành phố. Ông Võ Văn Kiệt được giao phụ
trách công tác tiếp quản các cơ sở kinh tế, kỹ thuật sau khi Quân Giải
phóng miền Nam chiếm được thành phố. Các thành viên dự hội nghị đã nhất
trí đề nghị Bộ Chính trị cho lấy tên gọi "Chiến dịch Hồ Chí Minh"
thay cho tên gọi "Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn - Gia Định".
Ngày 14 tháng 4, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam gửi Bức điện
số 37/TK cho Bộ Chỉ huy Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn - Gia Định:
"Đồng
ý chiến dịch giải phóng Sài Gòn lấy tên là Chiến dịch Hồ Chí Minh"
Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam
|
Tình
thế chiến dịch
Do kết quả của Chiến dịch Phan
Rang - Xuân Lộc và các trận tấn công của Quân Giải phóng tại đồng
bằng sông Cửu Long, đến ngày 25 tháng 4 năm 1975, Quân lực
Việt Nam Cộng hòa đã mất hầu hết các vị trí then chốt trong tuyến phòng thủ
từ xa quanh Sài Gòn. Thành phố lúc này trở thành một ốc đảo chỉ còn giao lưu với
bên ngoài bằng đường không. Tuy nhiên, đến ngày 26 tháng 4, các hãng
hàng không nước ngoài đã đổi hướng tất cả các chuyến bay quá cảnh Tân
Sơn Nhất và hủy bỏ hầu hết các chuyến bay đến và đi từ Sài Gòn. Đại sứ
quán các nước lần lượt đóng cửa, hạ cờ. Theo mô tả của nhà báo Pháp
Paul Drayfrus, thành phố này đã gần như điên loạn và đang chứng kiến sự kết
thúc của một chế độ.
Ngay khi sắp sửa phải rời đi khỏi Sài
Gòn, Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) cũng vẫn không buông tha Việt
Nam. Ngày 25 tháng 4, một đài phát thanh bí mật của CIA giả danh Đài Phát
thanh Giải phóng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đặt
tại Okinawa đã tung ra một tin thất thiệt là có một cuộc đảo
chính vừa xảy ra tại Hà Nội và ba sư đoàn Quân Giải phóng đã
phải quay lại miền Bắc. Nhưng chính những người của CIA tại Sài Gòn khi đó
cũng nhận định rằng đây là một trò bịp tồi và phần lớn người Sài Gòn đều cho rằng
đó là một tin ngớ ngẩn và rằng mọi cố gắng nhằm lung lạc ý chí của đối phương
ngay trước cửa ngõ Sài Gòn đều là những cố gắng vô ích, làm trò cười cho thiên
hạ. Trên thực tế, vào đầu năm 1973 đúng là có ba sư đoàn của Hà
Nội bị tổn thất nặng sau chiến cuộc năm 1972 và phải rút ra Bắc an dưỡng.
Nhưng họ đã quay lại chiến trường vào cuối năm 1974 với đội hình được
trang bị đầy đủ.
Do sức ép lớn từ các tướng dưới quyền
như Trần Văn Đôn, Cao Văn Viên, Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, Bộ trưởng
Kinh tế Nguyễn Văn Hảo, Tổng thống Sài Gòn Nguyễn Văn Thiệu buộc
phải từ chức vào ngày 21 tháng 4 năm 1975. Khi từ chức, Nguyễn
Văn Thiệu đã xuất hiện trên truyền hình phát biểu suốt 3 giờ đồng hồ
để trách móc việc thoái thác trách nhiệm của chính phủ Mỹ. Ông Thiệu đổ lỗi thất
bại là do người Mỹ bằng những lời lẽ nửa tức giận, nửa thách thức: "Mỹ đánh không lại Cộng sản nên bỏ mặc Việt
Nam Cộng hòa đánh một mình thì làm sao ăn nổi. Có giỏi thì Mỹ vô đây lần nữa…". Ông
Thiệu lên án thẳng Hoa Kỳ là "một đồng minh vô nhân đạo với
những hành động vô nhân đạo".
Cũng trong bài diễn văn từ chức, Nguyễn
Văn Thiệu tuyên bố mạnh mẽ rằng ông ta sẽ tiếp tục cầm súng chiến đấu: "Dù mất một Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu,
quân đội vẫn còn Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, đồng bào còn một chiến sĩ Nguyễn
Văn Thiệu. Tôi nguyện sẽ chiến đấu kề bên anh em chiến sĩ...". Nhưng
những tuyên bố đó đã không được Nguyễn Văn Thiệu thực hiện. Chỉ 4
ngày sau, Nguyễn Văn Thiệu đã bí mật lên máy bay thoát khỏi Sài Gòn
vào đêm ngày 25/4/1975. Cuộc ra đi của Nguyễn Văn Thiệu diễn ra bí mật trong
đêm tối, dưới sự sắp đặt của Thomas Polgar - Trưởng Chi nhánh CIA ở
Sài Gòn.
Trong một nỗ lực cuối cùng để mở được
cuộc nói chuyện với Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam, cho dù kết quả là rất mong manh, ngày 28 tháng 4, hai viện của Quốc
hội Việt Nam Cộng hòa đã "mời" Tổng thống Trần Văn Hương từ
nhiệm sau một tuần nắm giữ chức vụ và đưa tướng Dương Văn Minh, một người
chịu ảnh hưởng của Pháp và là tác giả chủ chốt của cuộc đảo chính lật
đổ anh em Diệm - Nhu ngày 3 tháng 11 năm 1963, lên ghế tổng thống.
Họ cho rằng với sự giúp đỡ và vận động của Đại sứ Pháp tại Sài Gòn Jean
Marie Merillon và người phó của ông ta là Vanussème, Chính phủ Cách mạng
Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam sẽ chấp nhận thương lượng. Tướng Minh
cho biết "người Pháp cho rằng có một cường quốc nào đó không muốn cho
một Việt Nam thống nhất trở thành hùng cường nên họ có thể ngăn chặn
thắng lợi của Hà Nội". Ông ta cũng tin rằng "Hà Nội chưa chắc
đã có một bộ máy hành chính để quản lý toàn quốc nên họ có thể sẵn sàng chấp nhận
một chế độ quá độ". Tuy nhiên, đến chiều tối ngày 28 tháng 4 thì
tất cả hy vọng vào những lá bài ngoại giao cuối cùng đều tan vỡ khi những loạt
đạn 130 mm của Trung đoàn Pháo binh 45 (Đoàn Tất Thắng - Quân Giải
phóng) đặt tại trận địa Nhơn Trạch nã cấp tập vào Sân bay Tân
Sơn Nhất ngay sau trận ném bom của phi đội A-37 do Nguyễn
Thành Trung dẫn đường. Ba "sứ giả" do Tổng thống Dương Văn
Minh phái đi đàm phán với đối phương về một giải pháp ngừng bắn đã phải ngủ
đêm tại trụ sở của hai phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính
phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam trong Ban Liên hiệp
Quân sự bốn bên tại Trại Davis cạnh sân bay Tân Sơn Nhất.
Cùng lúc đó, tại Hội nghị La Celle
Saint Cloud, phái đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt
Nam tuyên bố nội các Trần Văn Hương bản chất là nội các Nguyễn
Văn Thiệu nhưng không có Nguyễn Văn Thiệu nên họ tiếp tục từ chối đàm phán
với Việt Nam Cộng hòa. Họ chỉ đàm phán khi toàn bộ nội các của chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu phải ra đi. Trước đó, trong tuyên bố từ chức của mình, Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu vẫn cương quyết không đàm phán với Chính phủ Cách mạng Lâm thời
Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Để tiếp tục nối lại đàm phán, Dương Văn Minh cử
con trai tới lâu đài La Celle Saint Cloud để thông báo phái đoàn Cộng hòa
Miền Nam Việt Nam rằng nếu Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam chấp nhận chính quyền Dương Văn Minh thì Việt Nam Cộng hòa sẽ
ngừng bắn ngay để tiến hành đàm phán nhưng chính quyền Trần Văn Hương lại
cử tướng Nguyễn Khánh sang Hoa Kỳ cầu viện. Do đó, phái
đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tiếp tục từ chối
đàm phán. Tới 28/4/1975, Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố sẵn sàng đàm phán
nhưng lúc này Sài Gòn đã hoàn toàn bị bao vây, phía Chính phủ Cách mạng
Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tuyên bố dành cho Hoa Kỳ và Việt
Nam Cộng hòa một ngày để di tản. Ngày 30/04/1975, Việt Nam Cộng hòa chính
thức đầu hàng vô điều kiện Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt
Nam.
Các
diễn biến tại khu vực Sài Gòn - Gia Định
Đợt
1
7 giờ sáng ngày 26 tháng 4, một số
đơn vị thám báo của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại cụm căn cứ Nước
Trong - Long Thành đã có vài cuộc chạm súng nhỏ với các đơn vị trinh sát của Sư
đoàn 304. Quân đoàn III (Việt Nam Cộng hòa) tăng phái cho cụm quân ở
Nước Trong - Long Thành Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến 468. Từ 7 giờ 30 phút đến
16 giờ 30 phút, tướng Nguyễn Văn Toàn lệnh cho Sư đoàn 5 Không
quân đánh phá tuyến chuẩn bị của Quân đoàn 2 nhưng không gây được
thiệt hại đáng kể cho đối phương và bị bắn rơi bốn chiếc A-37, một chiếc UH-1A.
17 giờ ngày 26 tháng 4, Chiến
dịch Hồ Chí Minh bắt đầu với tiếng gầm thét của cuộc pháo kích cấp tập từ
hơn 20 tiểu đoàn pháo binh thuộc các Quân đoàn 2, 3 và 4 Quân
Giải phóng vào các căn cứ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại Nhơn
Trạch, Hố Nai, Biên Hòa, Nước Trong, Long Thành, Đức Thạnh, Bà
Rịa, Đồng Dù, Trảng Bàng, Gò Dầu. Trận pháo kích kéo dài gần 1 giờ liền
đã làm rung chuyển nội đô Sài Gòn. Pháo binh Quân lực Việt Nam Cộng
hòa phản ứng yếu ớt và nhanh chóng bị hỏa lực của Quân Giải phóng dập
tắt.
Trên hướng Đông, Quân đoàn 2 sử
dụng Sư đoàn 304 mở màn cuộc tấn công vào cụm Long Thành - Nước
Trong, đánh bật được Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến 468 ra rừng cao su, bắn cháy gần
20 xe tăng, xe bọc thép và chỉ bị tổn thất một xe tăng. Đến đêm 26
tháng 4, Sư đoàn 304 chỉ chiếm được trường thiết giáp, chưa giải quyết được khu
vực trường bộ binh và ngã ba đường 15 với các chốt công sự kiên cố vẫn ở trong
tay Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tại mũi thứ yếu, Sư đoàn 3 Sao Vàng đã
chiếm được các khu vực Bình Giã, Ngãi Giao và Núi Đất sau 2 giờ giao chiến. 17
giờ chiều 27 tháng 4, Trung đoàn 141 của sư đoàn này và Đại đội Xe tăng 4
có pháo binh yểm hộ đã đánh chiếm thị xã Bà Rịa và huyện Xuyên Mộc. Quân lực Việt
Nam Cộng hòa chốt giữ tại cầu Cỏ May đã phá cầu nhưng không chặn được mũi vu hồi
sâu của Sư đoàn 3 Sao Vàng và phải rút chạy. 16 giờ ngày 29 tháng 4, Sư
đoàn 3 chiếm thị xã Vũng Tàu. Các phân đội Z23, Z22 Lữ đoàn 316 và Tiểu
đoàn 81 (Trung đoàn Đặc công Cơ giới) chiếm 2 đầu cầu Rạch Chiếc nhưng bị Quân
lực Việt Nam Cộng hòa phản kích nên có 30 người hi sinh. Các lực lượng
địa phương giải phóng các huyện Long Điền, Đất Đỏ, Xuyên Mộc và các mảng nông
thôn 2 bên quốc lộ 15, 25, 19, 1 và 2.
Sáng 27 tháng 4, Sư đoàn 325 từ
mũi thứ yếu chuyển thành mũi chủ yếu đánh vu hồi vào sườn trái cụm quân Việt
Nam Cộng hòa tại Nước Trong - Long Thành, phối hợp với Sư đoàn 304 tấn
công từ hướng đối diện. Sư đoàn 5 Không quân Việt Nam Cộng hòa điều động
hơn 114 phi vụ oanh kích vào đội hình QGP nhưng không cản được đường
tiến của Lữ đoàn Xe tăng 203 Quân Giải phóng và bị bắn rơi 2 chiếc F-5,
4 chiếc A-37, 3 chiếc A-1 và 1 chiếc HU-1A. 16 giờ 30
phút chiều 27 tháng 4, Sư đoàn 325 đánh chiếm Long Thành, bắt hơn 500
tù binh. Sang ngày 28 tháng 4, căn cứ Nhơn Trạch bị Sư đoàn 304
đánh chiếm. Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 cho triển khai ngay Lữ đoàn Pháo binh 164 tại
đây để pháo kích sân bay Tân Sơn Nhất. Tuyến phòng thủ hướng Đông Nam Sài
Gòn của Quân đoàn III - Quân lực Việt Nam Cộng hòa bị vỡ một mảng lớn.
Trên hướng Đông Bắc, 4 giờ 7 phút
sáng 27 tháng 4, Quân đoàn 4 gồm Sư đoàn 341 và Sư
đoàn 6 tấn công Trảng Bom, Suối Đỉa và Long Đạt, tướng Lê Minh Đảo điều
Chiến đoàn 52 có 8 xe tăng yểm hộ đánh vào sườn đội hình tấn công của Sư
đoàn 7 nhưng lại bị Sư đoàn 341 tấn công từ bên sườn, 4 xe tăng bị bắn
cháy. 8 giờ 30 phút sáng 27 tháng 4, yếu khu quân sự Trảng Bom bị QGP đánh
chiếm, gần 500 sĩ quan, binh sĩ Quân lực Việt Nam Cộng hòa bị bắt làm
tù binh. 9 giờ sáng 27 tháng 4, số quân còn lại của Sư đoàn 18 và
một chi đoàn của Lữ đoàn 3 Thiết giáp Quân lực Việt Nam Cộng hòa rút
từ Trảng Bom về Suối Đĩa đã bị phục kích hai bên đường, hơn 2000 quân và gần
100 xe các loại bị Sư đoàn 341 Quân đội Nhân dân Việt Nam tiêu diệt
và bắt giữ. Trên hướng thọc sâu, Sư đoàn 7 (Quân đoàn 4) phát triển đến Hố
Nai thì phải dừng lại để phối hợp với sư đoàn 341 và sư đoàn 6 thực hiện đòn tấn
công tổng hợp vào các lực lượng của Lữ đoàn 3 Thiết giáp và Lữ đoàn Dù 4 Quân
lực Việt Nam Cộng hòa. Đến quá nửa đêm 28 tháng 4, do bị thệt hại nặng, Lữ
đoàn 3 Xe tăng và Lữ đoàn 4 Dù phải lùi về Gò Vấp. Trung đoàn Đặc
công 113 của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chiếm Cầu Gềnh, Rạch
Cát nhưng không giữ được, chưa chiếm được Cầu Mới. Đoàn Pháo binh 75 đặt trận địa
tại Hiếu Liêm từ ngày 14 tháng 4 liên tục khống chế tê liệt sân
bay Biên Hòa.
Trên hướng Tây Bắc, Từ chiều 26
tháng 4, Sư đoàn 316 (Quân đoàn 3 Quân Giải phóng) và lực lượng
vũ trang Tây Ninh đã liên tiếp đánh chiếm một loạt đồn bốt của Quân
lực Việt Nam Cộng hòa dọc theo Quốc lộ số 1 và Đường 22, chia cắt Sư
đoàn 25 Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại Gò Dầu - Trảng Bàng với Sài
Gòn và chặn nốt cả đường rút của sư đoàn này về Đồng Dù, Củ Chi. Ngày 27
tháng 4, Sư đoàn 316 tiếp tục đẩy lùi cuộc phản kích của Trong các trận đấu
pháo từ ngày 25 đến ngày 28 tháng 4 trên hướng này, 39 khẩu pháo các
cỡ của Quân đoàn 3 Quân Giải phóng đã phá hủy 33 khẩu pháo các cỡ
155 mm và 105 mm của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại Đồng
Dù, Phước Mỹ, Đồng Chùa, Trảng Bàng, Gò Dầu Hạ, Bến Kéo, Khiêm Hạnh, phá hủy 11
trận địa pháo, gây thiệt hại năng cho 7 trận địa pháo khác của Quân lực Việt
Nam Cộng hòa. Trong đội hình Quân đoàn 3, Sư đoàn 10, Trung đoàn Xe tăng
273 và lực lượng Công binh của Quân đoàn đã chuẩn bị xong các phương tiện vượt sông
Sài Gòn. Sư đoàn 320A đã tiềm nhập vào khu vực Củ Chi, áp sát căn cứ
Đồng Dù.
Trên hướng Nam và Tây Nam, 22 giờ
ngày 26 tháng 4, Sư đoàn bộ binh 5 mở đầu chiến dịch trên hướng
này bằng đòn đánh chia cắt Đường số 4 tại bốn điểm Rạch Chanh, ngã ba Nhị
Thành, ấp Bình Yên, Phú Mỹ và áp sát thị xã Tân An, chi khu Thủ Thừa. Đến
ngày 27 tháng 4, Sư đoàn 5 đã cắt hẳn Đường số 4 tại hai đoạn từ Bắc Tân
An đến Bến Lức và từ Nam Tân An đến Tân Hiệp. Sư đoàn 303 - Phước Long
đánh chiếm tiểu khu Hậu Nghĩa và các chi khu Đức Hòa, Đức Huệ. Trung đoàn 27 Đặc
công tập kích các chốt Bà Hom, Vĩnh Lộc, căn cứ ra đa Phú Lâm, mở hành lang
cho Sư đoàn 9 đột kích trên mũi tiến công chủ yếu. Sư đoàn 8 (Quân
khu 8) tấn công các vị trí của Sư đoàn 22 Quân lực Việt Nam Cộng hòa dọc
hai con sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, đưa một lực lượng thọc
sâu tấn công thành phố Mỹ Tho, cắt đứt hoàn toàn Đường số 4, cô lập Sài Gòn với đồng
bằng sông Cửu Long. Mặc dù Tỉnh trưởng Long An gọi điện cho tướng Nguyễn
Khoa Nam yêu cầu cho dùng thuốc nổ phá hủy hai cầu Tân An và Bến Lức nhưng
tướng Nam không đồng ý do các cầu này được dùng cho phương án dự phòng để
rút Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa từ Sài Gòn về Cần
Thơ. Trên đường biển, Đô đốc Chung Tấn Cang cũng dành riêng một chiến
hạm để di tản chính phủ Việt Nam Cộng hòa về Cần Thơ. Cả tướng Lê
Văn Hưng và tướng Lê Minh Đảo, những "người hùng Xuân Lộc" một
thời cũng đặt hy vọng vào việc biến Quân khu IV thành căn cứ để kéo
dài cuộc chiến thêm một thời gian. Thế nhưng sự xuất hiện đột ngột của một đơn
vị mới tương đương quân đoàn (Đoàn 232) của Quân Giải phóng tại đồng
bằng sông Cửu Long đã đặt những hy vọng và kế hoạch nói trên trước nguy cơ
phá sản.
Đợt
2
Tại hướng Bắc
Do tiếp cận chiến trường muộn hơn các
đơn vị khác, phải đến 16 giờ chiều ngày 27 tháng 4, Quân đoàn 1 -
Quân đội Nhân Dân Việt Nam mới đưa được những đơn vị chủ lực của mình bước vào
chiến đấu. Trên mũi tấn công chủ yếu, Sư đoàn 320B - được tăng cường
Tiểu đoàn Xe tăng 66 của Lữ đoàn 202, một Đại đội Xe tăng độc lập, một Tiểu
đoàn Công binh công trình, một Tiểu đoàn Pháo 130 mm, có cụm pháo của Lữ
đoàn Pháo binh 45 (đoàn Tất Thắng) yểm hộ - đã tấn công Chi khu Tân Uyên và sân
bay Ông Lĩnh, đánh thông đoạn phía đông Đường 16, mở đường đột phá sâu vào
trung tâm Sài Gòn, tiến đến Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, một
trong năm mục tiêu quan trọng nhất của chiến dịch. Một số trận đánh ác liệt
nổ ra tại Chi khu quân sự Tân Uyên, ngã ba Bình Chuẩn, Thuần Giáo, Búng, Tân Hiệp.
Tiểu đoàn Bảo an 316 Quân lực Việt Nam Cộng hòa và một Trung đội Cảnh
sát Dã chiến tại Tân Uyên đã dựa vào công sự vững chắc, cầm cự được suốt
đêm 27 tháng 4. Trên đường tiến, Sư đoàn 320B chỉ để lại một số lực lượng
đủ để cô lập các chốt chặn dọc đường của các Tiểu đoàn Bảo an 317, 321, 346;
còn các lực lượng chủ yếu đều nhanh chóng vượt sông Sài Gòn, tiến vào nội
đô. Đến sáng 28 tháng 4, viên Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 316 và 35 binh
sĩ Quân lực Việt Nam Cộng hòa còn sống sót đã đầu hàng. Đường tấn
công của Quân đoàn 1 - Quân đội Nhân Dân Việt Nam (Đường 16) từ Tân Uyên qua
Búng đến Lái Thiêu đã được mở thông.
Tại mũi thứ yếu, phát hiện Sư đoàn
312 đang bao vây căn cứ Phú Lợi, tiến công Lai Khê; tướng Lê Nguyên Vỹ,
Tư lệnh Sư đoàn 5 Quân lực Việt Nam Cộng hòa sử dụng Chiến đoàn
7, có xe tăng yểm hộ, cố giải tỏa Đường 13 và 14, đồng thời tăng cường cho cứ
điểm An Lợi. Nhưng khi đoàn xe di chuyển đến khu vực Tam Giáo thì rơi đúng vào
mũi tấn công của chủ lực sư đoàn 312, có Lữ đoàn Xe tăng 202 (thiếu) yểm hộ.
Sau khi bị bắn cháy ba chiếc xe đi đầu, Chiến đoàn 7 Quân lực Việt Nam Cộng
hòa đã bị tách khỏi chủ lực Sư đoàn 5 ở Lai Khê và toàn bộ Sư đoàn 5 cũng
bị cô lập ở phía Bắc Thủ Dầu Một. Trên đường vào nội đô, Quân đoàn 1 còn phải
khắc phục các bãi mìn, vật cản chống xe tăng, xe cơ giới, có chỗ rộng đến 100
m, dài hơn 200 m. Đến 15 giờ ngày 29 tháng 4, sau khi gỡ hết các mìn chống
tăng, mở đường vòng tránh và sử dụng tù binh dẫn đường, Quân đoàn 1 đã tập kết
trước cứ điểm Lái Thiêu và chỉ còn cách trung tâm Sài Gòn - Gia Định
khoảng 15 km.
3 giờ sáng 30 tháng 4, Sư đoàn
320B tấn công đánh chiếm Lái Thiêu và Trung tâm huấn luyện quân sự Huỳnh Văn
Lương, bức hàng hơn 2000 sĩ quan, binh lính Quân lực Việt Nam Cộng hòa,
trong đó có viên Chỉ huy trưởng trung tâm, Trung tá Nguyễn Văn Hinh và Trung tá
Nguyễn Thái Bình, Chỉ huy trưởng Chi khu Lái Thiêu. Trước nguy cơ bị tiêu
diệt và tan rã, ngày 29 tháng 4, Chuẩn tướng Lê Nguyên Vỹ, Tư lệnh thứ
19 của Sư đoàn 5 - Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã tự sát trong căn cứ.
Đại tá Nguyễn Mạnh Tường, phó Tư lệnh Sư đoàn 5, Tiểu khu trưởng Bình
Dương, các viên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 7, 8, 9 đã kéo cờ trắng xin hàng.
10 giờ sáng 30 tháng 4, Sư đoàn 312 đã đánh chiếm xong các căn cứ Lai Khê,
Bến Cát, Lái Thiêu. Cụm phòng thủ phía Bắc Sài Gòn của Quân lực Việt Nam Cộng
hòa tan vỡ.
Từ 9 giờ ngày 30 tháng 4, Quân
đoàn 1 lần lượt đánh chiếm Bộ Tư lệnh Thiết giáp, Bộ Tư lệnh Lục quân công xưởng,
Tổng kho Quân nhu, Tổng y viện Quân lực Việt Nam Cộng hòa, căn cứ 31, căn
cứ 60, quận lỵ Gò Vấp, Trung tâm Truyền tin Điện tử; đánh tan cụm phòng thủ
Bắc cầu Bình Triệu do các Thiết đoàn 15, 18, 22 của Lữ đoàn 3 Kỵ binh và 2 Tiểu
đoàn Dù chốt giữ, thu 144 xe tăng, xe thiết giáp, bắt hơn 1500 tù binh. Lúc 10
giờ 30 phút, Sư đoàn 320B đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng
hòa, Sư đoàn 312 đánh chiếm trụ sở Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa. Những
mục tiêu quan trọng cuối cùng trong nội đô Sài Gòn được giao cho Quân đoàn 1
chiếm lĩnh đều được giải quyết trong ngày 30 tháng 4. Tại các mục
tiêu quan trọng bị đánh chiếm như Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa,
Bộ Tư lệnh Hải quân Việt Nam Cộng hòa, Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa, Tổng
nha Cảnh sát: QGP thu được rất nhiều tài liệu cơ mật của các cơ quan
này. Tất cả đều được giao cho Bộ Tổng Tham mưu Quân Giải phóng miền Nam và
Công an Giải phóng miền Nam Việt Nam quản lý, khai thác.
Tại hướng Tây Bắc
Đêm 28 tháng 4, Bộ Tư lệnh Quân
đoàn 3 QGP đã điều động Sư đoàn 320A (thiếu) tiềm nhập vào
khu vực Củ Chi bằng một cuộc hành quân bí mật ban đêm. Đơn vị này được
tăng cường một Tiểu đoàn Pháo 155 mm, một Trung đoàn Phòng không. 5 giờ 30
phút sáng ngày 29 tháng 4, các đơn vị này bất ngờ nổ súng tấn công căn cứ Đồng
Dù, sở chỉ huy của Sư đoàn 25 - Quân lực Việt Nam Cộng hòa do Chuẩn
tướng Lý Tòng Bá làm Sư đoàn trưởng. Tại căn cứ này, tướng Bá nắm
trong tay hơn 3000 quân, 34 xe tăng, xe bọc thép, 4 khẩu pháo M107 175 mm,
4 khẩu 155 mm, 10 khẩu 105 mm để thực hiện ý đồ tử thủ đến cùng. Sau
cuộc pháo kích kéo dài 2 giờ đồng hồ, Sư đoàn 320A và các đơn vị phối thuộc
tràn vào căn cứ Đồng Dù. Lúc 8 giờ, ba chiếc xe tăng T-54 được phối
thuộc cho Sư đoàn 320A bị bắn cháy tại cửa mở nhưng cũng đổi được ba chiếc M-48 của
Trung đoàn 10 Thiết giáp Quân lực Việt Nam Cộng hòa đóng tại căn cứ này. Lúc 9
giờ 30 phút, Đại tá Nguyễn Kim Tuấn và Ban Chỉ huy Sư đoàn 320A điều
Trung đoàn 9 và 8 xe tăng còn lại của Tiểu đoàn Thiết giáp từ lực lượng dự bị
tiếp tục tăng cường cho Trung đoàn 48 tấn công dứt điểm căn cứ Đồng Dù. Đến
10 giờ 30 phút cùng ngày, các chốt kháng cự của Sư đoàn 25 - Quân lực Việt
Nam Cộng hòa tại Đồng Dù lần lượt bị dập tắt. Quân lực Việt Nam Cộng hòa
điều Trung đoàn 46 từ Trảng Bàng phản kích nhưng đã bị Trung đoàn 9 chặn đứng.
11 giờ cùng ngày, Sư đoàn 320A hoàn thành việc đánh chiếm căn cứ Đồng Dù. Chuẩn
tướng Tư lệnh Sư đoàn 25 Lý Tòng Bá và Đại tá Sư đoàn phó Trần Thăng
Chức chạy trốn ra rừng cao su Bắc Hà nhưng đã bị du kích Củ Chi phục
bắt. Và ngày này trở thành ngày kỷ niệm giải phóng Củ Chi.
Căn cứ Đồng Dù thất thủ làm cho phía
sau tuyến phòng thủ vòng ngoài của Quân lực Việt Nam Cộng hòa từ Củ
Chi đến Gò Dầu Hạ bị hở sườn, hở lưng. Sư đoàn 316 tại Phước Mỹ, Phước
Hiệp, Trảng Bàng chuyển từ thế vây ép sang thế tấn công vào Liên đoàn 32 Biệt động
quân, bắt sống Trung tá Liên đoàn trưởng Lê Khải Toàn, đồng thời tiêu diệt các
lực lượng còn sót lại của Sư đoàn 25 Quân lực Việt Nam Cộng hòa và lực
lượng Biệt động quân trên Đường số 1 và 2, chiếm chi khu Trảng Bàng, giải phóng
hầu hết tỉnh Tây Ninh. Sư đoàn 10 được tăng cường Trung đoàn 64
(từ Sư đoàn 320A), Trung đoàn Xe tăng 273, Trung đoàn Đặc công 198 đã chia
thành 2 hướng và mở cuộc tấn công từ Củ Chi vào Liên đoàn 9 Biệt động quân và
hai Liên đoàn Bảo an tại Hậu Nghĩa, phát triển đến khu vực cầu Bông và chiếm cầu
chỉ sau 50 phút giao chiến. Mũi thứ hai của cánh quân này là Trung đoàn 28 đánh
chiếm cầu Sáng, thành Quan Năm, quận lỵ Hóc Môn, Quân trường Quang Trung, đến
trưa ngày 29 đã có mặt tại ngã tư Bà Quẹo; Trung đoàn Gia Định được tăng cường
Tiểu đoàn 195 gây thiệt hại cho một Đại đội Biệt động quân ở Tân Thới Thượng,
tiến công các chi khu Xuân Thế Thượng, Tân Thới Thất rồi phát triển ra Quốc lộ
1, làm chủ Tham Lương. Tại khu nhà máy dệt Vinatexco và ngã tư Bảy Hiền, Quân
lực Việt Nam Cộng hòa sử dụng một Tiểu đoàn Biệt động quân, một Tiểu đoàn
Bảo an và một Chi đoàn Thiết giáp tổ chức chống cự nhưng bị đánh tan lúc 19 giờ
30 phút cùng ngày sau ba đợt phản kích. Cánh cửa phía Tây Bắc Sài Gòn đã được mở
ra.
5 giờ 30 phút sáng 30 tháng 4, sau
một trận pháo kích từ tất cả các cỡ súng lớn của Quân đoàn, Sư đoàn 10 và hai Đại
đội Xe tăng của Trung đoàn Thiết giáp 273 - Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam tấn công sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tư lệnh Thiết giáp, Bộ Tư lệnh Không
quân và Sở Chỉ huy Trung đoàn 5 Không quân Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Lữ
đoàn Dù 4 (thiếu), một Tiểu đoàn của Liên đoàn Bảo an 391 cùng hai Đại đội Quân
cảnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa lùi về phòng thủ tại khu vực cổng số 5 của
sân bay nhưng chỉ chống cự được hơn một giờ và tan rã sau hai đợt tập kích. Đến
10 giờ 30 phút, Sư đoàn 10 với sự dẫn đầu của nữ biệt động Nguyễn Thị Trung
Tiên đã tiến vào sân bay Tân Sơn Nhất qua hai cổng 4, 5 và hầu như đã chiếm trọn sân
bay Tân Sơn Nhất, khu ra đa điều hành không lưu, Sở Chỉ huy Sư đoàn 5 Không
quân, Sở Chỉ huy Sư đoàn Dù, bắt liên lạc với hai phái đoàn Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam tại trại Davis. Sư đoàn 320A tách Trung đoàn 28 sang phối hợp với
Quân đoàn 1 đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa, điều Trung
đoàn 64 có một Đại đội Xe tăng K-63 (PT-85) đi kèm tiến về phía sau Dinh Độc
Lập qua đường Lê Văn Duyệt và đường Hồng Thập Tự còn
Trung đoàn 24 và 2 tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn Xe tăng 273 thì phối hợp với Trung
đoàn 48 Sư đoàn 320B (Quân đoàn 1) đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu Việt Nam Cộng
hòa. Khi các đơn vị này đến nơi thì các đơn vị phái đi trước của Lữ đoàn Xe
tăng 203 và Trung đoàn 66 (Sư đoàn 304) đã có mặt tại Dinh Độc Lập trước
đó 30 phút. Ngoài ra 2 Trung đoàn 316 và 320 thì tiếp tục truy quét Sư
đoàn 25 Quân lực Việt Nam Cộng hòa, giải phóng Củ Chi, Hóc Môn và Tây Ninh.
Tại hướng Đông Bắc
Chướng ngại cuối cùng đối với Quân
đoàn 4 Quân Giải phóng trên đường tiến vào Sài Gòn là khu phòng thủ Hố
Nai - Long Bình - Tam Hiệp do nhữug lực lượng còn lại của Sư đoàn 18, 2 tiểu
đoàn còn lại của Lữ đoàn Kỵ binh Thiết giáp số 3 và Liên đoàn Bảo an 318 phòng
thủ. Tại đây, tướng Lê Minh Đảo đã cho đào 4 lớp hào chống tăng, đặt
âm các xe tăng trong công sự, hình thành nhiều ổ đề kháng cố định và cơ động. Để
giải quyết nhanh cụm phòng thủ này, ngày 29 tháng 4, tướng Hoàng Cầm một
mặt sử dụng một trung đoàn của Sư đoàn 341 và Trung đoàn Pháo binh 55
dùng hỏa lực chế áp các cứ điểm phòng thủ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa,
mặt khác điều hai trung đoàn 266 và 270 phối hợp với Sư đoàn 6 vòng
qua cụm chốt đánh chiếm sân bay Biên Hòa, Sở Chỉ huy Quân đoàn III - Quân
lực Việt Nam Cộng hòa, Sở Chỉ huy Sư đoàn 3 Không quân, trận địa pháo Hốc Bà Thức
và Tổng kho Long Bình. 4 giờ sáng ngày 30 tháng 4, Sư đoàn
7 (Quân đoàn 4) đã có mặt tại cầu Ghềnh. Do cầu yếu (trọng tải 12 tấn/lượt
xe), toàn bộ xe tăng của Quân đoàn 4 phải di chuyển qua cầu Xa lộ để vào Sài
Gòn. Tại ngã ba Tam Hiệp, tướng Lê Minh Đảo cố gắng lập một cụm chốt
phòng ngự nhưng cũng bị đánh tan lúc 11 giờ trưa ngày 30 tháng 4. 12 giờ
30 phút, các đơn vị phái đi trước của Trung đoàn 14, Sư đoàn 7, Quân đoàn 4 hội
quân với Trung đoàn 66, Sư đoàn 304, Quân đoàn 2 tại Dinh Độc
Lập đúng lúc Tổng thống Dương Văn Minh đọc xong lời tuyên bố đầu
hàng không điều kiện trên Đài phát thanh Sài Gòn.
Tại hướng Tây Nam
Đêm 29 tháng 4, Sư đoàn 9 đảm
nhận mũi tấn công chủ yếu của đoàn 232 cùng với hai tiểu đoàn xe tăng
sau khi vượt qua các chướng ngại đồng lầy, sông nước tại Long An đã sử
dụng Trung đoàn 1 đánh chiếm cầu Bà Lác, ngã năm Vĩnh Lộc, theo đường Lê
Văn Duyệt tấn công Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô; Trung đoàn 2 được tăng
cường 7 xe tăng T-54, 16 xe bọc thép BTR-60, 2 xe M-113 hình
thành mũi tấn công thứ hai vào Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô qua ngả An
Ninh, Mỹ Hạnh. Trung đoàn 3 của sư đoàn này có 3 xe tăng T-54, 6 xe BTR-60 đã
tiêu diệt Sở Chỉ huy Liên đoàn 8 và Tiểu đoàn quân 88 trên tuyến vành đai Đại
Hàn; tiếp đó đánh tan Tiểu đoàn Bảo an 327 ở nam Vĩnh Lộc, diệt chi khu Bà Hom,
đánh chiếm trường đua Phú Thọ. Mặc dù bị hai phi đội A-37 của Sư đoàn
4 - Không lực Việt Nam Cộng hòa từ Cần Thơ lên đánh bom
trúng đội hình đi đầu nhưng các đơn vị này vẫn vây chặt được Bộ Tư lệnh Biệt
khu Thủ đô. Không còn đường thoát, lúc 10 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4, tướng Lâm
Văn Phát, Tư lệnh Biệt khu Thủ đô đã dẫn các thuộc cấp ra đầu hàng và
kêu gọi sĩ quan, binh sĩ thuộc quyền hạ vũ khí, chấm dứt kháng cự.
Trong khi đó Trung đoàn 24 cùng Đặc
công diệt đồn Bình Hưng Đông, chiếm giữ cầu Nhị Thiên Đường, cầu Chữ
Y, Bộ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia. Trung đoàn 88 diệt chi khu Bà Hom, tiến công đồn
Ông Thìn, ngã ba An Phú, khu Nhà Bè. Trung đoàn 16 đánh chiếm ga An Lộc, cầu
Bình Điền. Sư đoàn 5 tấn công tiêu diệt và bức hàng toàn bộ Sư
đoàn 22 và các Liên đoàn Biệt động quân của Quân lực Việt Nam Cộng
hòa, cùng lực lượng địa phương đánh chiếm thị xã Tân An, chi khu Thủ Thừa. Các
đơn vị đặc công chiếm các quận Tân Bình, Bình Chánh và khu
Rừng Sác.
Tại hướng Đông Nam
Đây là hướng tấn công chủ yếu của Quân
đoàn 2 và đồng thời cũng là hướng phản kích quyết liệt nhất của Quân
lực Việt Nam Cộng hòa để mở đường máu thoát ra biển qua sông Lòng Tàu và
căn cứ hải quân Cát Lái. Vì vậy cuộc chiến ở khu vực này cũng diễn ra ác
liệt không kém các cuộc chiến tại hướng Đông, Bắc và Tây Bắc Sài Gòn. Sáng 28
tháng 4, những đơn vị còn lại của hai Lữ đoàn Thủy quân Lục chiến và Chiến đoàn
322 Quân lực Việt Nam Cộng hòa mới được điều từ lực lượng dự bị ra đã
dùng hơn 20 tàu đổ bộ của hải quân bất ngờ mở cuộc phản kích vào Lữ đoàn Pháo
binh 164 và Sở Chỉ huy Sư đoàn 325. Trung đoàn Pháo binh 84 (thuộc Sư đoàn
325) và Trung đoàn Cao xạ 824 (Sư đoàn Phòng không 673) đã lập tức dùng hỏa lực
pháo bắn thẳng phá vỡ đội hình phản kích của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, bắn
chìm 7 tàu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đến 15 giờ chiều ngày 28 tháng
4, Trung đoàn 101 (Sư đoàn 325) đã tiếp cận chiến trường, giành lại trận địa, đẩy
các lực lượng phản kích của Quân lực Việt Nam Cộng hòa lùi về Cát
Lái. Sáng 29 tháng 4, Sư đoàn 304 QGP tổ chức hai mũi đột
kích vu hồi gồm Trung đoàn 24, Trung đoàn 9 và một Đại đội Xe tăng của Lữ đoàn 203.
Đến 10 giờ cùng ngày, các đơn vị này đã dập tắt các ổ đề kháng của Quân lực
Việt Nam Cộng hòa, làm chủ tình hình ở khu vực Nước Trong và ngã ba Đường 15. Trưa 29
tháng 4, các tướng Hoàng Cầm (Tư lệnh Quân đoàn 4) và Nguyễn
Hữu An (Tư lệnh Quân đoàn 2) đều nhận được mật lệnh của Bộ Chỉ huy
Chiến dịch Hồ Chí Minh: "Tấn công vào nội đô Sài Gòn từ 16 giờ cùng
ngày"; sớm hơn dự kiến 12 giờ. 14 giờ chiều 29 tháng 4, Quân đoàn 2
đã đánh chiếm các mục tiêu còn lại tại Nhơn Trạch, bến phà Cát Lái, khu
kho hậu cần Thành Tuy Hạ, vượt sông Đồng Nai đánh chiếm căn cứ hải
quân Cát Lái.
Tối 29 tháng 4, lực lượng đột kích
sâu của Quân đoàn 2 đã sẵn sàng tiến quân từ Long Nha. Cụm quân này gồm có Lữ
đoàn 203 Tăng - Thiết giáp đi đầu và đi giữa đội hình, Trung đoàn 66 Bộ binh Cơ
giới (có hơn 50 xe ô tô chở quân), một Đại đội Bộ binh Cơ giới của Trung đoàn
18 sử dụng xe thiết giáp V-100, Tiểu đoàn 7 Cao xạ (Trung đoàn 284), một Đại
đội Tên lửa Phòng không Strela-2 (A-72), Tiểu đoàn 4 Pháo binh (Lữ
đoàn 164), hai Đại đội Pháo 85 mm (Trung đoàn 68, Sư đoàn 304), một Tiểu
đoàn Công binh và hai Đại đội Cầu phà (Lữ đoàn Công binh 219). Lực lượng đột
kích sâu được lệnh bỏ qua các ổ đề kháng lẻ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa,
để lại cho Trung đoàn 18 (Sư đoàn 325) hành quân theo sau giải quyết. Mục tiêu
cuối cùng là tiến thẳng đến Dinh Độc Lập.
Sáng 30 tháng 4, cụm đột kích sâu
nhanh chóng dập tắt các ổ đề kháng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại
cầu Xa Lộ, Căn cứ Rạch Chiếc, căn cứ Nguyễn Huệ, Học viện Cảnh sát, cầu
Sài Gòn. Pháo binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa trụ lại tại căn cứ Thủ
Đức dùng hỏa lực súng cối và súng chống tăng M-72 chặn đánh và
chia cắt đội hình Tiểu đoàn Xe tăng 5 (Lữ đoàn 203). Một phân đội của Lữ đoàn
203 liền kéo vào tiêu diệt nhóm pháo binh này. Tại đây xe tăng 707 của
lữ đoàn đã phải chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và người cuối cùng. Đến 9
giờ sáng 30 tháng 4, sau khi dồn bộ phận còn lại của đối phương vào trong
căn cứ Thủ Đức, Tiểu đoàn 5 để lại cụm quân này cho Trung đoàn 18 (Sư đoàn 325)
xử lý và đuổi theo các đơn vị đi đầu lúc này đã đến cầu Sài Gòn. Sau khi
đánh tan sức kháng cự của 8 xe tăng có sự phối hợp của 6 tàu chiến hải
quân Quân lực Việt Nam Cộng hòa đậu tại Tân Cảng, cụm đột kích sâu
nhanh chóng vượt qua cầu Sài Gòn tiến vào đường Hồng Thập Tự, nhưng
cũng mất 4 xe tăng và Tiểu đoàn trưởng Ngô Văn Nhã của Lữ đoàn Xe tăng 203 hi
sinh.
Sau khi tiêu diệt cụm chốt cuối cùng của Quân
lực Việt Nam Cộng hòa tại cầu Thị Nghè gồm 4 xe tăng và 6 lô cốt
chỉ trong vòng 15 phút, Tiểu đoàn Xe tăng 1 (Lữ đoàn 203) đã tiếp cận cổng Dinh
Độc Lập qua ngả Thảo Cầm Viên. Xe tăng 843 lao vào húc cánh cổng phụ
bên trái của dinh nhưng bị kẹt lại. Còn xe tăng 390 do Chính trị viên Đại đội Vũ
Đăng Toàn chỉ huy húc đổ cánh cổng chính và tiến vào sân Dinh Độc Lập. Đại
đội trưởng Bùi Quang Thận ra khỏi xe 843, lấy lá cờ trên xe của
mình đem vào treo lên cột cờ trên nóc Dinh Độc Lập lúc 11 giờ 30
phút.
Ít phút sau, Đại úy Phạm Xuân Thệ,
Trung đoàn phó Trung đoàn 66 và hai Đại đội Bộ binh đã có mặt tại Dinh Độc
Lập. Toàn bộ Nội các của chính quyền Việt Nam Cộng hòa có mặt tại
dinh lúc đó gồm: Tổng thống Dương Văn Minh, Phó tổng thống Nguyễn Văn
Huyền, Thủ tướng Vũ Văn Mẫu, Phó thủ tướng Bùi Tường Huân, Tổng trưởng
Kinh tế Nguyễn Văn Hảo, Tổng trưởng Thông tin Lý Quí Chung, Tổng trưởng
Thương mại và Kỹ nghệ Nguyễn Văn Diệp, Tổng trưởng Tài chính Lê Quang
Trường, Thứ trưởng Thông tin Nguyễn Văn Ba, Thứ trưởng Quốc phòng Bùi Thế Dũng,
Phụ tá Tổng Tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh, Chánh văn phòng Phủ Thủ tướng
Vũ Trang Chiêm. Tại đây, ông Dương Văn Minh nói: "Chúng tôi
chờ cách mạng đến để bàn giao chính quyền". Ông Phạm Xuân Thệ tuyên
bố: "Các ông chẳng còn gì để bàn giao, các ông phải đầu hàng vô điều
kiện". 11 giờ 45 phút ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông Phạm
Xuân Thệ và các sĩ quan dưới quyền đã đưa ông Dương Văn Minh ra
đài phát thanh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
KẾT
QUẢ
Chiến dịch Hồ Chí Minh, chiến dịch quân
sự lớn nhất của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong toàn bộ cuộc Chiến
tranh Việt Nam đã kết thúc thắng lợi với sự tan rã hoàn toàn của quân đội
và chế độ Việt Nam Cộng hòa, toàn bộ lực lượng cố vấn quân sự còn lại của Mỹ ở
Việt Nam phải rút chạy. Kết quả của chiến dịch này là sự thống nhất, độc lập,
chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ trên đất liền, vùng trời, vùng biển của Việt
Nam sau hơn 100 năm bị nước ngoài xâm lược, chiếm đóng và chia cắt.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Quân
Giải phóng đã làm tan rã toàn bộ lực lượng chủ lực, địa phương, cảnh sát
thuộc Quân khu 3 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và lực lượng
dự bị là tàn quân của Quân đoàn 1 và Quân đoàn 2 của Quân lực
Việt Nam Cộng hòa rút về, tổng cộng trên 45 vạn quân. Thu 500 khẩu pháo, hơn
400 xe tăng, xe thiết giáp, 800 máy bay, 600 tàu chiến, 270.000 khẩu súng các
loại, 3.000 xe quân sự và toàn bộ kho tàng.
Nguồn: wikipedia